I. NGUỒN GỐC TÊN NAM KỲ LỤC TỈNH
Nghiên cứu lịch sử một tín ngưỡng không thể tách rời lịch sử của đất nước đã là cái nôi của nền tín ngưỡng đó. Lịch sử khai đạo Cao Đài khởi nguyên trong thập niên 20 của thế kỷ XX, tại miền Nam, lúc ấy còn được gọi là Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục Tỉnh, Lục Tỉnh, và Lục Châu. Bối cảnh lịch sử miền Nam hay là một cái nhìn tổng quát về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của miền Nam ở đầu thế kỷ XX rất cần thiết cho việc tìm hiểu lịch sử Cao Đài, cũng như sẽ “hiểu thêm tại sao miền Nam có vài sắc thái tôn giáo mà ngoài Bắc ngoài Trung không có...” [1]
Theo Ðại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi tên trấn Gia Định ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.
Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832) vua Minh Mạng đổi tên thành Gia Định ra thành Phiên An, năm trấn chia thành sáu tỉnh Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Như vậy tên Lục Tỉnh đã có từ năm 1832. Hai năm sau (Giáp Ngọ, 1834), Lục Tỉnh được gọi chung là Nam Kỳ. Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định. [2]
Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa (1862) và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (1867), thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn.
Lúc đầu Pháp gọi département thay cho phủ, gọi arrondissement thay cho huyện.[3] Khoảng năm 1868, Nam Kỳ Lục Tỉnh có hơn hai mươi arrondissement (gọi là hạt hay địa hạt, do tham biện cai trị, dinh hành chánh gọi là tòa tham biện, chịu dưới quyền thống đốc đóng ở Sài Gòn, thư ký địa hạt cũng gọi là bang biện tức là secrétaire d’arrondissement).
Nghị định ngày 07-6-1871 thu hẹp lại còn mười tám hạt; rồi tăng lên mười chín (1876); tăng lên hai mươi (1880); bỏ hạt hai mươi (1881); rồi lại lập thêm hạt Bạc Liêu (1882) và hạt Cap Saint Jacques (1895) thành hai mươi mốt arrondissement.
Nghị định ngày 16-01-1899 đổi tên hạt thành tỉnh (province), tham biện đổi thành chủ tỉnh (chef de province), tòa tham biện gọi là tòa bố.
II. LỤC TỈNH CHIA RA HAI MƯƠI MỐT TỈNH
Vài chục năm sau mới chia tỉnh ra quận (délégation) dưới quyền chủ quận; quận chia ra tổng (canton), đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành xã. [4]
Do có thay đổi tên theo Nghị định 1899, dân Nam Kỳ thời trước còn gọi viên chức đầu tỉnh là quan tham biện chủ tỉnh; người thông ngôn cho chủ tỉnh được gọi là thông ngôn đứng bàn ông chánh.[5] Như vậy, do Nghị định đó, từ năm Kỷ Hợi (1899), Lục Tỉnh của Nam Kỳ chia thành hai mươi mốt tỉnh như sau:
- Gia Định chia thành năm tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Tây Ninh, Gò Công.
- Biên Hoà chia thành bốn tỉnh: Biên Hoà, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Cap Saint Jacques (tức Vũng Tàu).
- Định Tường đổi thành Mỹ Tho.
- Vĩnh Long chia thành ba tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh.
- An Giang chia thành năm tỉnh: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Sóc Trăng, Cần Thơ.
- Hà Tiên chia thành ba tỉnh: Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu.
Chia lại đất Nam Kỳ thành hai mươi mốt tỉnh,[6] có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục Tỉnh trong lòng người Việt, cũng là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống, một thủ đoạn tâm lý bên cạnh các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến. Nhưng dân Nam Kỳ vẫn hoài vọng Lục Tỉnh. Nên mãi đến năm Mậu Thân (1908) trên tờ báo Lục Tỉnh tân văn do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, vẫn xuất hiện thường xuyên tên Lục Tỉnh, Lục Châu. Mùa Thu năm Bính Dần (1926), khi khởi đầu công cuộc phổ độ ở miền Nam, các vị tiền bối khai đạo Cao Đài đã gọi đó là cuộc phổ độ Lục Tỉnh. Mãi đến thập niên 50 và 60, ở miền Nam cũng còn nói, nhắc đến hai chữ xa xưa này.
Pháp còn giữ lại hai chữ Nam Kỳ, gọi là Cochinchine, phân biệt với Bắc Kỳ là Tonkin, Trung Kỳ là Annam. Người Anh, Mỹ cũng gọi Nam Kỳ là Cochinchina. Giới học giả trong và ngoài nước từng đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về xuất xứ tên gọi Cochinchine, nhưng vẫn chưa ngã ngũ.[7]
![]() |
Bản đồ hành chánh Nam Kỳ Lục Tỉnh (1836)
![]() |
Bản đồ hành chánh Nam Kỳ thuộc Pháp
III. VÀI THUẬT NGỮ HÀNH CHÁNH Ở NAM KỲ THỜI PHÁP CHIẾM
1. Thống đốc và thanh tra
Đúng đầu bộ máy hành chánh Nam Kỳ thời Pháp chiếm là Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine). Viên chức này do Toàn quyền Đông Pháp, tức Đông Dương thuộc Pháp, giới thiệu và được Tổng trưởng Thuộc địa bổ nhiệm.
Toàn quyền còn cử thêm một viên chức lưu động, hàng năm thanh tra các tỉnh một lần và báo cáo cho Thống đốc. Đó là Thanh tra Chánh trị và Hành chánh Sự vụ (Inspecteur des affaires politiques et administratives).
Các thanh tra này dĩ nhiên chỉ phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp, cho nên mọi phúc trình của họ về tình hình Nam Kỳ đều đi ngược lại với lợi ích của dân Việt Nam. Lấy thí dụ, Thanh tra Lalaurette trong phúc trình ngày 01-01-1932, dài hai mươi bốn trang đánh máy khổ 21x33cm, khi trình bày về “Le Caodaïsme” đã dùng nhiều lời lẽ thiếu tử tế, đứng đắn. Người nghiên cứu đạo Cao Đài cần hiểu rõ khía cạnh này để hiểu rõ vì sao năm 1970, khi cho khởi đăng chuyên khảo “An Introduction to Caodaism” trên tạp chí The Bulletin of the School of Oriental and African Studies (BSOAS), của Viện đại học London, Giáo sư Ralph Bernard Smith cảnh giác mọi người hãy cẩn thận khi đọc những gì liên quan đến đạo Cao Đài được viết ra do những nhà chính trị thực dân, và Giáo sư Smith gọi cái óc thiếu vô tư, thiếu trung thực của họ là “the cynicism of political observers” [BSOAS, Vol. XXXIII, Part 2, London: 1970, p. 335.]
2. Soái phủ
Trụ sở của Thống đốc đặt tại Sài Gòn (về sau gọi là Dinh Gia Long). Người miền Nam quen gọi là Soái phủ Nam Kỳ (Gouvernement des Amiraux), vì cho tới năm 1878 nó còn là dinh của một quan võ Pháp, hàm Lieutenant-Gouverneur, tức Phó soái. Kể từ năm 1879 mới thay quan võ bằng quan văn, và Thống đốc Nam Kỳ (dân sự) đầu tiên là Le Myre de Vilers. Mãi đến năm 1926, khi gọi Quyền Thống đốc Le Fol, người Nam Kỳ vẫn còn quen miệng kêu lẫn lộn là Thống soái, Phó soái, dù ông không phải là sĩ quan.
![]() |
Soái phủ Nam Kỳ (ảnh tài liệu)
3. Chủ tỉnh, chủ quận, tri phủ, tri huyện
Tỉnh ở Nam Kỳ chia thành nhiều quận, đứng đầu là chủ quận. Trong khi đó, ở Bắc Kỳ, tỉnh chia thành nhiều phủ, đứng đầu là tri phủ; phủ chia thành nhiều huyện, đứng đầu là tri huyện.
Ở Nam Kỳ, quận chia thành nhiều tổng, đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành nhiều làng.
Chủ tỉnh là người Pháp. Do Nghị định ngày 15-02-1898, chủ quận được tuyển trong số viên chức hành chánh người Việt nào đã có ngạch huyện, phủ, đốc phủ sứ. Cho nên tri huyện, tri phủ ở Nam Kỳ chỉ là ngạch trật về hành chánh, không phải là quan chức như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ , mặc dù người miền Nam quen gọi chủ quận là quan phủ, quan huyện. Những viên chức người Việt này xuất thân là thơ ký, có thể có một ít vốn chữ Nho, học ở trường làng trước khi vào học chương trình Pháp ở Collège de Mỹ Tho (nay là trường Nguyễn Đình Chiểu) và trường Bổn quốc ở Sài Gòn, tức là Lycée Chasseloup Laubat, sau đổi tên thành Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quý Đôn). Phần lớn các bậc tiền bối có công khai đạo Cao Đài đã xuất thân từ hai trường học này, Hai trường trung học lớn khác là Pétrus Ký ở Sài Gòn và Collège de Cần Thơ.
IV. VÀI ĐẶC ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý Ở NAM KỲ
1. Số dân
Đầu thế kỷ XX, Sài Gòn và Chợ Lớn là hai khu vực riêng biệt . Riêng Sài Gòn rộng chừng 780 mẫu tây.
Số dân toàn Nam Kỳ (từ 15 tuổi trở lên) năm 1905 là 2.876.417; năm 1909 là 2.975.838. Số dân tăng lên vì có nhiều người từ Bắc, Trung Kỳ, Quảng Đông, Phước Kiến vào miền Nam làm ăn.[8] Cho đến năm 1920, số dân Nam Kỳ ước độ 3.600.000, và riêng số người Việt ở vùng Sài Gòn (không kể Chợ Lớn) vào năm 1921 là 308.512 người.[9]
2. Bộ mặt chung của Sài Gòn
Sài Gòn đến thế kỷ XX chưa liệt vào “Hòn ngọc Viễn Đông”. Trong Bến Nghé xưa, Sơn Nam miêu tả: “Ánh đèn điện chỉ rọi sáng khu trung tâm thành phố. Phía ngoại ô từ rạch Thị Nghè đi Bà Chiểu, nhà cửa thưa thớt, ban đêm tối om.” Nhiều tin đồn ma quỷ hiện ở Cầu Bông, và khu Lăng ông Bà Chiểu. Tại Thủ Đức, Hóc Môn còn có cọp xuất hiện (tr.145 - 6).
Chợ Bến Thành năm 1911 chưa có, “ba năm sau (1914) thì cất xong nhưng trước mặt còn ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp, chưa có dự kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá ong ...” (Đó là đường Galliéni, nay là Trần Hưng Đạo.)
“Xe lửa nối liền ra ngoại ô còn dùng hơi nước đến 1913 mới cải tiến chạy bằng sức điện.” (tr.146)
Trên đường Paul Blanchy (nay là Hai Bà Trưng), phía sau Nhà hát lớn đã có nhà đèn, lập từ cuối thế kỷ XIX. Về sau nó được “dời về Chợ Quán với quy mô to hơn, chạy hơi nước. Năm 1909, Sài Gòn và Chợ Lớn thiết bị tạm xong hệ thống đèn điện ở ngoài đường.” (tr.146)
“Về mặt hành chánh, đô thành Sài Gòn lần lần nới rộng, bao gồm vùng bên này Cầu Bông, Tân Định, rồi Khánh Hội, Chánh Hưng. Diện tích thành phố Sài Gòn (không có Chợ Lớn) vào năm 1907 là 1.674 héc-ta. Tuy thêm nhà cửa, dinh thự nhưng khu vực náo nhiệt vẫn chưa phát triển ra khỏi... [đường Lê Văn Duyệt; thời Pháp là đường Verdun], đường Nguyễn Thái Học. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ. Phương tiện xê dịch thông dụng là xe kiếng khi đổ mưa; người đánh xe mặc áo tơi bằng lá giống như áo tơi của nông dân vậy thôi. Chở chuyên hàng hóa thì dùng xe bò.” (tr.147)
3. Tín ngưỡng
Theo Sơn Nam, “Việc thờ phượng Quan Công, thờ Phật, việc tin tưởng vào chư tiên chư thánh đã có sẵn từ lâu ở miền Nam...” [10] Nhận xét về “giới bình dân đông đảo ở nông thôn và lớp nghèo thành thị”, Sơn Nam thấy rằng họ đã “xây dựng một nếp sống tinh thần khá ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa huynh đệ làm trọng, sống chết có nhau, giữ trung cang nghĩa khí lúc khó khăn, hiếu động. Đúng là nếp sống tinh thần kết tinh đạo Phật, Lão, Khổng.” [11]
Những nhận xét này cho thấy trước khi đạo Cao Đài xuất thế, ở Nam Kỳ đã có sẵn mảnh đất tốt cho một tín ngưỡng tổng hợp Tam giáo phát triển. Điều này giải thích vì sao khi đạo Cao Đài phổ độ Lục Tỉnh, số tín đồ quy tụ rất mau lẹ và đông đảo, khiến thực dân Pháp hết sức lo ngại.
4. Cách ăn mặc
“Trừ một số ít được theo Tây học, làm công chức (từ thơ ký thi tuyển lên huyện, phủ) ưa mặc Âu phục còn đại đa số (luôn cả người theo Tây học) thích xuất hiên, ăn tiệc, chụp ảnh với cái khăn đóng, áo dài đen, quần trắng, đi giày hàm ếch, tay chống ba-ton, để râu trái ấu vuốt sáp; giới quan quyền mặc áo dài lụa xanh thêu chữ thọ, mang giày da buộc dây.” [12] Ai theo thời mới thì “mặc Âu phục, đội nón Tây, thắt nơ, râu vuốt sáp, tóc ngắn.” [13] Bên cạnh đó, “công chức hạng nghèo thuở ấy mặc áo dài đen.” Còn những người thuộc “giới công nhân và lao động chịu hớt tóc ngắn, nhưng còn giữ búi tóc, bịt khăn đầu rìu hoặc ở trần, đi chân đất không phải ít.” [14]
5. Tâm lý quần chúng
Nhận xét tâm lý quần chúng ở Nam Kỳ dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp, tuần báo Lục Tỉnh tân văn số 16, ngày 01-10-1908 viết: “Tánh người An Nam mình hay sợ sệt lắm...” Do đó, khi chủ xướng những công cuộc lớn lao, muốn vận động, thu hút quần chúng, trong thành phần nhân sự nồng cốt bao giờ cũng cần có các công chức. Sơn Nam nêu ra lý do là dân chúng “tin rằng công chức luôn luôn đàng hoàng, không làm quốc sự.” Ngay cả trong chuyện kinh doanh, điều này vẫn đúng, cho nên số báo nói trên viết rằng trong thương mại “hễ có các ông nha môn ra làm đầu thì đâu đâu ai cũng xin vô hùn.” [15]
Tìm hiểu thời kỳ khai nguyên đạo Cao Đài nên lưu ý yếu tố tâm lý này. Trong số các vị môn đồ của buổi đầu khai sơn phá thạch, có đủ thành phần: nông dân, nhà tu xuất gia, cư sĩ, nghệ sĩ, nhà giáo, nhà buôn... và một con số không ít gồm các công chức. Các công chức này đã góp phần trong việc thu hút đông đảo dân chúng nhập môn đạo Cao Đài, nhất là khi tư cách của những vị ấy gây được uy tín với dân chúng địa phương.
V. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI
Nổi bật ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX là phong trào Minh tân do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu và các đồng chí như Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản... lãnh đạo. Phong trào về sau bị thực dân Pháp đàn áp.
Trên tuần báo Lục Tỉnh tân văn, ông chủ bút Gilbert Chiếu thường gọi các đồng chí của mình là “vị Minh tân” hay “tay Minh tân” [16]. Ông Lê Văn Trung được Lục Tỉnh tân văn số 27, ngày 21-5-1908 giới thiệu là “người Minh tân”, và Sơn Nam ghi nhận ông Trung “về sau này là vị Quyền Giáo tông của Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (đạo Cao Đài), một tôn giáo mới tổng hợp Đông Tây thâu hút đồng bào Minh tân lúc trước, khiến thực dân Pháp lo ngại.” [17]
![]() |
Gilbert Trần Chánh Chiếu (ảnh tài liệu)
Ông Phạm Công Tắc suýt cũng bị Pháp bắt trong vụ thất bại của phong trào Minh tân. Lúc ấy, phong trào tổ chức đưa thanh niên ra nước ngoài học (Đông du), ba chuyến đầu trót lọt. Ông Tắc được bố trí đi chuyến thứ tư. Lần này bị lộ, Pháp ập đến trụ sở Minh tân Công nghệ xã, nhờ ông Lương Khắc Ninh kịp thủ tiêu hồ sơ và chứng tích nên không ai bị bắt.
Do ít nhiều mối liên hệ giữa cá nhân hai ông Trung và Tắc với phong trào yêu nước Minh tân như vậy, nên sau này không tránh khỏi có một ít người ngộ nhận, lầm tưởng rằng Cao Đài là “dư âm”, là “hậu thân” [sic] của phong trào Minh tân.[18]
Đã đành có rất đông tín đồ buổi đầu khai Đạo cũng là những người yêu nước chống thực dân, như Phạm Văn Sơn đánh giá: “Ngày nay dù sao chúng ta cũng không thể phủ nhận lòng ái quốc chân thành của các nhà lãnh đạo Cao Đài ...” [19] nhưng yêu nước chỉ mới là một trong nhiều nội dung của giáo lý Cao Đài, và được đạo Cao Đài coi là một tiêu chuẩn luân lý của đạo làm người (thế đạo hay nhân đạo). Tuy vậy không thể đơn thuần chỉ xét cạnh khía này rồi cố ý đồng hóa đạo Cao Đài với các phong trào chính trị, không biết vô tư nhìn đạo Cao Đài như là một tín ngưỡng độc đáo và đặc thù của dân tộc Việt Nam.
Tình hình chính trị ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX vô cùng phức tạp, gay gắt. Có những biến cố lớn như sau:
- 1903: Phan Bội Châu vào tận Châu Đốc để tìm hiểu phong trào cách mạng ở đây.
- 1908: Pháp đàn áp phong trào Minh tân.
- 1913: Kỳ ngoại hầu Cường Để vào Nam Kỳ, lưu lại ba tháng. Phan Xích Long xưng là Hoàng đế, khởi nghĩa ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, rồi bị bắt giam ở khám Lớn.
- 1914: Thế chiến thứ Nhất bùng nổ ở châu Âu.
- 1915: Pháp bại trận. Phát xít Đức chiếm Paris. các phong trào yêu nước ở Việt Nam hy vọng có thể lợi dụng tình thế này để giành lại độc lập.
- 1916: Dân chúng đánh khám Lớn giải cứu Phan Xích Long, nhưng thất bại. Mười ba tỉnh của Nam Kỳ cực kỳ xáo trộn vì loạn lạc, Pháp khủng bố.
- 1920: Toàn quyền Maurice Long tổ chức lại Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ, tục gọi là Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial). Đây là nơi tranh giành quyền lợi giữa các nhóm tư bản Hoa, Pháp và tư sản Nam Kỳ. Sự xâu xé ấy lan ra báo chí, chiếm chỗ trên các tờ báo như La tribune indigène (của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai). L’Indochine (của luật sư Morin), La Voix libre (của Ganobsky), La Cloche fêlée (của Nguyễn An Ninh), L’Echo annamite (của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long).
Bên cạnh đó, do nghề in phát triển, sách vở có nội dung cách mạng được lưu hành bí mật hay phổ biến công khai.[20]
Trong lúc giới trí thức Nam Kỳ gần như lạc vào trận đồ bát quái thì quần chúng bình dân thế nào?
Các thanh tra chính trị và hành chánh của thực dân báo động rằng các cuộc cầu cơ hỏi chuyện “quốc sự”, nói sấm tiên tri thời cuộc đang lan tràn khắp Lục Tỉnh. Có câu rằng:
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Người ta đoán đến một năm Ngọ nào đó “thằng Tây” sẽ thua, và tại một vùng sông nước linh thiêng nào đó sẽ xuất hiện vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam:
Bảo giang thiên tử xuất,Bất chiến tự nhiên thành,Rồi đây mới biết thánh minh,Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.
Người ta chờ, hy vọng sẽ thấy Minh vương:
Bao giờ Nam Việt thạnh thời,Minh vương sửa trị ngôi Trời đặt an.
Có lẽ do đức tin đó, năm 1913, Phan Xích Long khi khởi nghĩa cho thêu trên lá cờ những chữ Nho bí hiểm: Bửu sơn Kỳ hương, và Thánh minh Vương phật.
Còn những người an phận, thích tìm nơi hoang vắng tu hành, chịu khổ hạnh đợi hội Long hoa, chờ Phật vương ra đời.
Không khí tín ngưỡng dân gian nhuộm khắp Lục Châu. Giới trí thức ở thành thị cũng không kém. Thanh tra Lalaurette, trong phúc trình “Le Caodaïsme” đã dẫn, báo cáo rằng những năm đầu thập niên 20, trong giới công tư chức Nam Kỳ nổi lên một phong trào tìm hiểu và thực hành thông công với thế giới siêu hình qua sách vở chữ Pháp do hội Thông thiên học truyền bá, với các tác giả như Allan Kardec, Flammarion, Blavatsky, Annie Besant, Olcott ... Một chủ quận hồi ấy cũng ghi nhận: “Une véritable vague de spiritisme sévissait en 1924-1925 dans toute la Cochinchine.” (Một làn sóng thông linh học lan tràn khắp Đông Dương những năm 1924-1925.)
Lalaurette cũng cho biết Pháp đã tìm đủ mọi cách để trấn áp, như áp dụng các hình phạt nặng, vận dụng điều 144 của Hình luật, Quyển 6, để sử giảo nạn nhân, hoặc truy nã theo Nghị định 22-4-1873 của Phó Đô đốc Dupré. Pháp còn cho người trà trộn vào các nơi đáng nghi để theo dõi, chỉ điểm, dựa theo những quy định về thu dụng nhân viên chìm, chế độ trả tiền cho kẻ điềm chỉ ... mà Chuẩn Đô đốc Lafont ban hành ngày 06-7-1878.
Trong tình hình như thế, việc cầu cơ vẫn xuất hiện khắp cả ba kỳ, mặc dù phải dè dặt, kín đáo; phải tổ chức lẻ tẻ, ít người tham dự. Ở Trung Kỳ, có nơi gọi đàn cầu tiên là thiện đàn.[21] Chính các đàn cơ ở khắp nơi như vậy đã có ít nhiều liên hệ với sự xuất thế của đạo Cao Đài .
VI. CƠ BÚT VÀ NHỮNG TIÊN TRI CAO ĐÀI XUẤT THẾ
1. Lời tiên tri qua cơ bút
Các đàn tiên tri quy tụ những người hầu đàn cơ gồm đủ mọi tầng lớp trong xã hội, do nhiều mục đích khác nhau. Có thể chia ra ba nhóm chính:
- Nhóm sĩ phu ưu thời mẫn thế, mượn đàn cơ để hỏi việc thiên cơ, hầu hết vận mệnh đất nước ra sao. Những đàn này thường lập rất kín đáo.
- Nhóm mặc khách tao nhân, mượn đàn cơ để xướng họa thi phú với thần tiên, di dưỡng tính tình. Những đàn này thường lập trong ít người đồng thanh khí.
- Nhóm bình dân, gồm những người cần xin thuốc chữa bịnh, cầu thọ ... Những đàn này phổ biến hơn cả, rất đa dạng. Qua sự linh ứng nhãn tiền, đông đảo dân chúng đã có đức tin nơi siêu hình. Những đàn này thường chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định, tại một địa phương nào đó, rồi ngưng hẳn (bế đàn). Ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ XX có một số đàn hữu danh thuộc loại này, như đàn Hiệp Minh (ở Cái Khế, tỉnh Cần Thơ), đàn Minh Thiện (ở Thủ Dầu Một), đàn Chợ Gạo (tỉnh Chợ Lớn)...
Trong số các đàn tiên tri sự xuất hiện của đạo Cao Đài, có thể dẫn lại ba trường hợp tiêu biểu như sau:
a. Đàn tại quận Cao Lãnh (1913)
Thứ sáu, ngày 03-01-1913 (26-11 Quý Sửu), tại quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc, một nhóm sĩ phu lập đàn tại nhà ông Lê Quang Hiển (nhạc phụ nhà báo Diệp Văn Kỳ), mục đích hỏi về thiên cơ, quốc sự. Chơn linh nhà Nho yêu nước Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân (1841 - 1875) giáng cơ ban cho bài thơ chữ Nho như sau:
Dung tất Cao Đài nhiệm khuất thân,Tứ triêm đào lý nhứt môn xuân.Canh tân bồi ức giang sơn cựu,Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt tân.Cửu thập thiều quang sơ bán lục,Nhất luân minh nguyệt vị tam phân.Thứa nhàn hạc giá không trung vụ,Mục đỗ Cao Đài tráng chí thân.
Ngài lại ban cho bài thơ dịch:
Co duỗi Cao Đài khoẻ tấm thân,Dạo xem đào lý đượm màu xuân.Giang sơn chẳng khác ngàn năm cũ,Ngày tháng chờ thay một chữ tân.Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,Một vừng trăng rạng chửa ba phân.Thừa nhàn cưỡi hạc không trung ruổi,Chạm mắt Cao Đài khoẻ tấm thân.[22]
Hai chữ Cao Đài được nhắc tới bốn lần mà không ai hiểu ngụ ý gì. Gia đình ông Lê Quang Hiển sao lại hai bài thơ, cất lên trang thờ làm kỷ niệm. Cuối năm 1926 (Bính Dần), khi các ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ ... trong đợt phổ độ Lục Tỉnh đến tại quận Cao Lãnh bấy giờ mọi người mới nhớ lại bài thơ mười ba năm trước.
![]() |
Lê Quang Hiển (ảnh tài liệu của Thiện Mộc Lan, Sa Đéc)
b. Đàn tại miễu Nổi (1923) và chùa Ngọc Hoàng (1923)
Miễu Nổi không biết có từ bao giờ, nằm trên một cồn nhỏ rộng khoảng một trăm thước vuông, ở giữa sông Bến Cát, là chi nhánh sông Bình Lợi, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định cũ. Trong miễu thờ Tề thiên Đại thánh, Ngũ long Công chúa.[23]
Trong một đàn lập ở miễu Nổi đêm 17-6 Quý Hợi (thứ Hai 30-7-1923), một vị trong Bát tiên là Tào Quốc Cữu giáng cơ khuyến tu, có đoạn: “Chư nhu có phước có duyên nên mới gặp Đạo kỳ này là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. Hữu duyên đắc ngộ Tam kỳ độ, tiên thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân.” [24]
Cùng năm ấy còn có một đàn cơ tiên tri khác, vào đêm 22-7 Quý Hợi (Chủ nhật 02-9-1923):
Huê phát Tam kỳ Đạo dĩ khai,Quang minh tứ hướng thướng tam tài.Đại phước kim đơn thân đắc ngộ,Đế quân giáng hạ, nhữ vô tai.[25]
Bài thơ quán thủ thành Huê Quang Đại đế, là vị giáng đàn. Câu một nói “Tam kỳ Đạo dĩ khai” (Đạo kỳ Ba đã mở rồi) ám chỉ việc ông Ngô Văn Chiêu đã học đạo với đức Cao Đài trước đó hai, ba năm (1920-1921). Câu hai nói “tứ hướng thướng tam tài” (bốn phương đều kéo cờ ba màu) tiên tri từ năm 1926 trở đi khắp nơi sẽ nhìn thấy cờ của đạo Cao Đài gồm ba màu Vàng, Xanh, Đỏ, tượng trưng cho Tam giáo (Phật, Lão, Nho). Câu ba nói tới “kim đơn” nhằm ngụ ý liên hệ tới phần nội giáo tâm truyền (tu thiền hay tịnh luyện) của đạo Cao Đài.
Đàn tiên tri nói trên tiếp nhận tại chùa Ngọc Hoàng. Chùa này nằm trên đường Phạm Đăng Hưng, vùng Đất Hộ (Đa Kao), lúc đầu tên gọi là Ngọc Hoàng điện, tạo tác trong hai năm 1905-1906. Vị giữ chùa đầu tiên là Lưu Minh, ăn chay trường, tu Minh sư.[26]
![]() |
Chùa Ngọc Hoàng ở Đa Kao (ảnh tài liệu)
2. Lời tiên tri trong kinh điển Minh sư
Minh sư là một tông phái thờ Tam giáo, nhưng trọng về Lão, sử dụng cơ bút, tu đơn (tức thiền đạo Lão). Khởi thuỷ, môn phái này quy tụ các di thần nhà Minh (Trung Quốc), xuất hiện đầu đời Thanh (cuối thế kỷ XVII). Tổ thứ mười hai của Minh sư là ông Trần Thọ Khánh có qua Việt Nam năm Giáp Ngọ (1894), năm sau tạ thế ở Trung Quốc.[27] Đạo Minh sư lúc đầu nuôi chí “phản Thanh phục Minh” nhưng với thời gian đã thay đổi nhiều. Khi được truyền bá ở Việt Nam, Minh sư trở thành một môn phái tu hành thuần túy, rất có uy tín ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Chùa Minh sư được gọi là Phật đường. Rất nhiều Phật đường là căn cứ mật của nghĩa quân chống Pháp.
Trước khi đạo Cao Đài xuất thế, trong tín đồ thông chữ Hán của Minh sư thường truyền tụng hai câu mà quán thủ là Cao Đài:
Cao như bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng,Đài tại nam phương Đạo thống truyền.
Ở miền Tam Quan, tỉnh Bình Định, Trung Kỳ, có phái tu Minh sư của một nhà ái quốc là đạo sĩ Trần Cao Vân (1866-1916). Kinh nhật tụng của phái này có hai câu:
Con cầu Phật tổ Như lai,Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên ông .
Đợi đến khi Cao Đài truyền từ Nam ra Trung, tín đồ Minh sư mới nghiệm được lời tiên tri. Lối tu có cơ bút, thờ Tam giáo của Cao Đài lại phù hợp Minh sư nên các lão sư và đông đảo tín đồ đã mau lẹ nhập môn, trong sự hân hoan là từ đây người nước Nam đã có đạo của dân tộc Việt Nam.
Sự xuất hiện của đạo Cao Đài ở Việt Nam, khởi nguyên từ đất Nam Kỳ, đã diễn ra trong một thời kỳ lâu dài. Riêng về thời kỳ tiềm ẩn, nhằm chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho đạo Cao Đài ra đời, có thể ấn định mốc thời gian khởi từ năm Canh Thân (1920) là năm lần đầu tiên vị môn đồ đầu tiên của đức Cao Đài là ông Ngô Văn Chiêu được biết đến hồng danh Cao Đài trong một đàn cơ ở tỉnh Tân An. Khởi từ năm ấy, thời kỳ tiềm ẩn có thể coi như kết thúc vào cuối tháng 8 Bính Dần (tháng 9-1926), vì vào lúc đó, ông Lê Văn Trung đã cùng các đồng môn công bố tuyên ngôn chính thức về sự ra đời của đạo Cao Đài. Tuyên ngôn này thường được gọi đơn giản là Tờ khai Đạo.
Những sự việc trọng đại xảy ra trong khoảng sáu năm này sẽ được tuần tự trình bày theo diễn tiến thời gian, mà khởi đầu là sự kiện đức Cao Đài hoá độ ông Ngô Văn Chiêu làm môn đệ đầu tiên của đức Cao Đài.
LEÂ ANH DUÕNG
CHÚ THÍCH
[1] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. Sài Gòn: Nxb Phù sa, 1971, tr. VII.
[2] Đại Nam nhất thống chí. Tập V. Phạm Trọng Điềm dịch. Đào Duy Anh hiệu đính. Huế: Nxb Thuận Hóa, 1992, 122, 133, 200, 201.
[3] Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16.
[4] Theo Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16-35; và theo Nguyễn Đình Đầu, “Địa bàn Thành phố qua các thời kỳ”, in trong Địa chí văn hóa Thành phố. 1988, tr. 485-486. Theo Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam Phần. Sài Gòn: 1961, Chương IV, tham biện là inspection; viên chức trông coi inspection gọi là inspecteur hay résident. Về tên bang biện, xem Paulus Huỳnh Tịnh Của, Sách quan chế. Sài Gòn: Bản in Nhà nước, 1888, tr. 15.
[5] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. 99.
[6] Tỉnh thứ hai mươi hai là Tân Bình, gồm một phần tỉnh Gia Định và Chợ Lớn nhập lại, được lập từ ngày 11-5-1944.
[7] Để tham khảo, sau đây là một cách giải thích của Nguyễn Đình Đầu [“Thay lời giới thiệu”, in trong: Pierre Pegneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu), Tự vị An Nam La Tinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Nxb Trẻ, 1999, tr: 5-6.]:
“Chúng ta có thể tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra làm hai phần COCIN và CINA. Cocin nguyên trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi âm Sin hay Ts’inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ “Giao Chỉ (gần) Tần” và chữ La Tinh ghi thành COCINCINA (mà người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ XVII, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA, COCHINCHINE hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ.
“Từ đầu thế kỷ XVII, hai họ Trịnh-Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai vùng cai trị Đàng Trong và Đàng Ngoài, lấy sông Gianh làm ranh giới phân ly. Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN...) tức lấy tên thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài. Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú Yên. Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự vị An Nam La Tinh –, địa danh COCINCINA lại chỉ thêm phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 và bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (...) Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba khúc và mệnh danh:
TONKIN là BẮC KỲ
ANNAM là TRUNG KỲ
COCHINCHINE là NAM KỲ
“Cả ba địa danh Đông Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ.”
LAD nói thêm: COCHIN mà Nguyễn Đình Đầu nói tới là một cảng trên bờ biển Malabar ở tây nam Ấn Độ, là nơi người phương Tây đặt chân lên nước Ấn trước tiên. Cảng bị thực dân Bồ Đào Nha chiếm từ năm 1502.
[8] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. XII.
Sơn Nam, Bến Nghé xưa. Nxb Văn nghệ, 1981, tr. 150-151.
[9] Sơn Nam, Đất Gia Định xưa. 1984, tr. 175.
[10] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. 45.
[11] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. VI.
[12] Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, 1984, tr. 157.
[13] Sơn Nam, Bến Nghé xưa, 1981, tr. 140.
[14] Sơn Nam, Bến Nghé xưa, 1981, tr. 158.
[15] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. 135-146.
[16] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. 140.
[17] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. 148.
[18] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên địa hội và cuộc Minh tân. 1971, tr. 142.
[19] Phạm Văn Sơn, Chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam. Sài Gòn: 1972, tr. 178.
[20] Phạm Văn Sơn, Chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam. 1972, tr. 59-60.
[21] Cao Xuân Huy, “Lao tzu’s philosophy and Confucius scholars”, Vietnamese studies, No. 56. Hà Nội: 1979, p. 29.
[22] Huệ Lương, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (Cao Đài giáo) sơ giải. Sài Gòn: Nxb Thanh hương Tòng thơ, 1963, tr. 27.
[23] Huỳnh Minh, Gia Định xưa và nay. Sài Gòn: 1973, tr. 203.
[24] Nguyễn Trung Hậu, Đại đạo căn nguyên. Sài Gòn: 1957, tr. 9.
[25] Nguyễn Trung Hậu, Đại đạo căn nguyên. 1957, tr. 9.
[26] Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Sài Gòn: Nxb Khai trí, 1969, tr. 198.
[27] Sơn Nam, Cá tính của miền Nam. Sài Gòn: Nxb Đông phố, 1974, tr. 108.
No comments:
Post a Comment