Sunday 12 June 2011

Chương III: Ngô Văn Chiêu

ĐỨC CAO ĐÀI HÓA ĐỘ ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU
Năm 1920 (Canh Thân) là lúc đức Cao Đài khởi sự hóa độ các tông đồ,[1] lập nên hàng môn đệ tiền phong, khai sơn phá thạch, mở ra một mối đạo mới cho dân tộc Việt Nam. Thời kỳ hóa độ các tông đồ diễn ra trong khoảng sáu năm (1920-1926), gồm hai giai đoạn:
- Khởi từ năm 1920 (Canh Thân), đức Cao Đài hóa độ ông Ngô Văn Chiêu, xây dựng nền tảng vô vi (nội giáo tâm truyền).
- Khởi từ năm 1925 (Ất Sửu), đức Cao Đài hóa độ nhóm Cao-Phạm, tức là nhóm Phổ độ, xây dựng nền tảng phổ độ hay ngoại giáo công truyền. (Việc này được trình bày ở hai chương III và IV.)
I. THÂN THẾ ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932)
Môn đồ đầu tiên của đức Cao Đài là ông Ngô Văn Chiêu, thường được biết qua đạo hiệu Ngô Minh Chiêu.
1. Thời thơ ấu
Ông Chiêu là con duy nhất của một gia đình lao động thanh bạch. Thân phụ là ông Ngô Văn Xuân. Thân mẫu là bà Lâm Thị Quý (1858-1919), cũng gọi Lâm Thị Tiền, người quận Bình Tây, tỉnh Chợ Lớn. Song thân ông đều làm công cho một nhà máy xay lúa ở Bình Tây. Ông Chiêu chào đời tại quê mẹ, ngày 07-01 Mậu Dần (thứ Sáu 08-02-1878, nhưng trên giấy căn cước ghi ngày dương lịch là 28-02-1878, có thể do việc lập khai sinh muộn).
Ông chào đời trong một mái nhà nhỏ bé, chung quanh đầy sình lầy, nằm phía sau chùa Quan đế, tục gọi chùa Ông, cất năm 1873 (Quý Dậu), ở số 1, đường Chùa, sau đổi là số 242 đường Lê Quang Liêm, hiện nay là đình Bình An, số 242 đường Trần Văn Kiểu, phường 3, quận 6, Sài Gòn.
Chùa Ông (ảnh tài liệu)
Khi được sáu tuổi, vì song thân ra Hà Nội mưu sinh, ông Chiêu được đưa về làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, tỉnh Mỹ Tho, sống với bà Ngô Thị Đây, em độc nhất của thân phụ ông. Bà có chồng Hoa kiều, bán thuốc bắc và cây ván. Vì không con, hai ông bà sẵn lòng nuôi cháu, cho ăn học.
Năm mười hai tuổi, ông Chiêu gặp Đốc phủ sứ Lê Công Xũng (1853-1920), công chức Tòa bố tỉnh Mỹ Tho. Người này đã chỉ dẫn cách làm đơn và giới thiệu cho ông vào học nội trú Collège le Myre de Vilers. Trường này nguyên là Collège de Mỹ Tho thành lập ngày 17-01- 1879, đến ngày 14-6-1881 thì đổi tên thành Collège le Myre de Vilers, sau năm 1945 đổi tên thành trung học Nguyễn Đình Chiểu cho tới nay.[2]
Về sau, ông lên Sài Gòn, học tiếp ở Collège Chasseloup-Laubat. Trường này thành lập ngày 14-11-1874, năm 1928 đổi tên là Lycée Jean Jacques Rousseau, từ năm 1966 đổi tên là trường trung học Lê Quý Đôn cho tới nay.[3]
Năm hai mươi mốt tuổi, ông đậu bằng thành chung (diplôme d’études primaires supérieures), và từ đây bắt đầu quãng đời công chức.
Nghiên cứu tiểu sử của ông Chiêu, Giáo sư Ralph Bernard Smith có nhận xét khách quan rằng: “Ảnh hưởng văn hóa và tín ngưỡng Việt Nam tất yếu đã tác động đến đời sống của ông nhiều hơn là vốn Tây học.” [4]
Lời nhận xét vô tư này cũng đúng nếu nói về các vị môn đồ khác của đức Cao Đài. Dù các vị ấy lớn lên khi Nam Kỳ đã thành thuộc địa Pháp, học trường Tây, làm công chức thuộc địa, nhưng vẫn thực sự là con người Việt Nam. Đôi khi một số người vì thành kiến, vì tư ý, có lúc gán ghép cho các tiền bối khai đạo Cao Đài hai chữ “thân Pháp” (sic). Như thế, đã cố tình lờ đi những nghi kỵ, ngược đãi, bạo hành... mà thực dân Pháp từng bao phen bức bách đạo Cao Đài.
2. Đời công chức (1899-1931)
Quãng đời công chức của ông Chiêu có thể được tóm tắt qua niên biểu sau đây:
23-3-1899: Ông Chiêu làm thư ký tập sự (élève secrétaire) tại Sở Tân đáo (Service de l’Immigration) ở Sài Gòn, mức lương 200 đồng. (Tân đáo: mới đến. Sở Tân đáo là sở quản lý những người vừa nhập cảnh, ngày nay gọi là sở di trú, sở quản lý nhập cảnh.)
14-7-1901: Ông Chiêu thăng lên ngạch phó thư ký hạng ba (secrétaire auxiliaire de 3e classe) tại Sở Tân đáo, mức lương 250 đồng. Phó thư ký có ba hạng (bậc).
01-01-1903: Ông Chiêu sang làm việc ở Dinh Thống đốc Nam Kỳ. Bấy giờ Thống đốc Nam Kỳ là François Pierre Rodier. Khi ông Chiêu rời khỏi Dinh Thống đốc (tháng 4-1909) thì Quyền Thống đốc Nam Kỳ là Ernest Antoine Outrey.[5]
14-7-1904: Ông Chiêu thăng lên ngạch phó thư ký hạng nhì (secrétaire auxiliaire de 2e classe) tại Dinh Thống đốc Nam Kỳ, mức lương 300 đồng một năm.
14-7-1908: Ông Chiêu thăng lên ngạch phó thư ký hạng nhất (secrétaire auxiliaire de 1er classe) tại Dinh Thống đốc Nam Kỳ, mức lương 480 đồng.
01-5-1909: Ông Chiêu làm thư ký Tòa bố tỉnh Tân An. Có rước mẹ theo để phụng dưỡng.
14-7-1910: Ông Chiêu thăng lên ngạch chánh thư ký hạng ba (secrétaire titulaire de 3e classe) tại Tòa bố tỉnh Tân An, mức lương 540 đồng. Cũng như phó thư ký, ngạch chánh thư ký có ba hạng (bậc).
14-7-1910: Ông Chiêu thăng lên ngạch chánh thư ký hạng ba (secrétaire titulaire de 3e classe) tại Tòa bố tỉnh Tân An, mức lương 540 đồng.
01-01-1913: Ông Chiêu thăng lên ngạch chánh thư ký hạng nhì (secrétaire titulaire de 2e classe) tại Tòa bố tỉnh Tân An, mức lương 600 đồng.
01-01-1916: Ông Chiêu thăng lên ngạch chánh thư ký hạng nhất (secrétaire titulaire de 1er classe) tại Tòa bố tỉnh Tân An, mức lương 660 đồng. Như vậy, còn ba năm nữa thì lẽ ra ông sẽ thăng lên ngạch thư ký ngoại hạng hay thượng hạng (secrétaire surnuméraire), nhưng ông đã thi chuyển sang ngạch tri huyện. Tri huyện có hai hạng (bậc).
01-01-1917: Ông Chiêu thi đậu ngạch tri huyện hạng nhì (huyện de 2e classe), làm chủ quận Tân An.
Trong hồi ký, Vương Hồng Sển cho biết: “Những năm khoảng trước 1925, trường cao đẳng dạy luật và hành chánh ở Hà Nội (école supérieure de droit et d’administration) chưa đào tạo và cung cấp đủ người dùng, thì chức huyện cũng được tuyển chọn trong hàng thơ ký soái phủ [Dinh Thống đốc Nam Kỳ] lâu năm, nhưng bắt buộc những người này phải qua hai kỳ thi đổ lửa.” Đó là (a) examen de culture générale, khảo về học lực phổ thông; (b) concours professionnel, khảo về chuyên nghiệp và khả năng.[6]
15-11-1919: Thân mẫu ông Chiêu từ trần. (Không rõ thân phụ tạ thế ở đâu, lúc nào.)
01-3-1920: Mãn tuần bá nhật (một trăm ngày) của thân mẫu, ông Chiêu chuyển đi làm việc ở tỉnh Hà Tiên.
14-7-1920: Ông Chiêu thăng lên ngạch tri huyện hạng nhất (huyện de 1er classe), mức lương khoảng 1.222 đồng (số tiền đọc không rõ).
26-10-1920: Ông Chiêu đi làm chủ quận Phú Quốc.
01-01-1924: Ông Chiêu thăng lên ngạch tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe), mức lương 1.672 đồng. Cũng như tri huyện, ngạch tri phủ có hai hạng. Tri phủ thấp hơn ngạch đốc phủ sứ.
29-7-1924: Ông Chiêu rời quận Phú Quốc về Sài gòn. Ông trở lại làm việc ở Dinh Thống đốc, công tác ở Phòng Nhì (2e bureau).
Dinh Thống đốc có bốn phòng (tài liệu năm 1888). Riêng Phòng Nhì là cơ quan dân sự, có nhiệm vụ: “– Chuyên về công việc cầu đường, nhà cửa, cùng các sở coi việc. – Chịu giấy làm giá cả. – Giấy hiệp đồng, lãnh biện vật hạng cùng công việc làm. – Suy tính, làm giấy lãnh tiền về đồ dùng cùng công việc làm. – Các kho dự trữ, cấp phát vật hạng. – Đồ dùng xưa cùng đồ công nhu cho các phòng. – Việc đường sá. – Phân đường lộ, lấy mực cất nhà, mực đường. – Xét dọn bộ sổ vật hạng, cùng bộ sổ công việc làm.” [7]
Như vậy, ông Chiêu chỉ là công chức hành chánh (dân sự). Đừng ngộ nhận rằng phòng nhì là cơ quan mật vụ, gồm các “lính kín”, là một nơi chuyên bắt bớ, điều tra, tra tấn... của thực dân Pháp, tức là service de la sûreté mà thời xưa người Việt gọi là sở liêm phỏng hay sở liêm phóng. Thực ra, phòng nhì là cơ quan bên quân đội, chuyên báo cáo cho bộ chỉ huy biết tình hình và khả năng hoạt động của quân địch, chịu trách nhiệm về các hoạt động tình báo và chiến tranh tâm lý, thu nhặt tin tức tình báo, nghiên cứu các hoạt động của nghĩa binh và quân du kích, v.v...
Khi ông Chiêu trở lại Dinh Thống đốc thì bấy giờ Thống đốc Nam Kỳ là Auguste Tholance; đến khi ông Chiêu nghỉ việc, rời khỏi Dinh Thống đốc (tháng 12-1931) thì Eugène Henri Eutrope đang làm quyền thống đốc Nam Kỳ lần thứ hai trong lúc Thống đốc Jean Félix Krautheimer vắng mặt.[8]
01-7-1926: Ông Chiêu thăng lên ngạch tri phủ hạng nhất (phủ de 1er classe), mức lương 1.933 đồng. Cao hơn ngạch tri phủ là đốc phủ sứ, thường gọi tắt là đốc phủ.[9]
1931: Ông Chiêu nghỉ việc về tỉnh Cần Thơ dưỡng bịnh.
Các sách thường không ghi rõ vào ngày ông Chiêu nghỉ việc. Nhưng có thể xác định là không thể sớm hơn tháng 12-1931, bởi lẽ theo hồi ký của Vương Hồng Sển, để thi lên ngạch tri huyện, ông Sển đã thi kỳ concours professionnel ngày 01-12-1931, mà “chủ khảo là ông Estèbe, tham biện chủ tỉnh Tân An, (...) và giám thị kỳ thi viết là ông Đốc phủ Ngô Văn Chiêu”.[10]

Tri phủ Ngô Văn Chiêu (Huệ Nhẫn sưu tầm)
Dinh Thống đốc Nam Kỳ (ảnh tài liệu)
Dưới thời thuộc địa, tuy được người dân trong xã hội kính trọng gọi là “quan”, nhưng ông Chiêu chẳng lấy thế làm vinh. Vốn xuất thân từ chỗ hàn vi, ông sẵn có lòng lân tuất đối với kẻ nghèo khổ chung quanh, không lấy địa vị xã hội làm phương tiện vơ vét đồng bào. Để giữ đức thanh liêm, dưỡng lòng chánh trực, ông luôn khép mình vào nguyên tắc Nhứt hào vô phạm (không phải là tiền của mình thì dù chỉ một hào cũng không xâm phạm, chiếm đoạt). Cái mà đời gọi là “quan huyện, quan phủ”, ông coi như một nghề nghiệp, để mưu sinh qua ngày. Trong câu chuyện với bạn, có lần ông Chiêu nói: “la bolée de riz administrative” – chén cơm hành chánh.[11] Mấy lời tiếng Pháp vắn tắt ấy đã phản ánh phần nào thái độ của ông đối với nghề nghiệp, không hề bận lòng với mồi phú quý, bả vinh hoa, mặc dù ông thừa điều kiện và khả năng sẵn có để thụ hưởng miếng đỉnh chung.
Ông sớm chọn một nếp sống kín đáo, dè dặt, không để dính líu vào các vụ chính trị cũng như không để chính quyền thuộc địa lợi dụng mà đi ngược lại với lợi ích đồng bào đồng chủng. Làm thư ký ở Sài Gòn, đồng lương không đủ phụng dưỡng cha mẹ, nuôi thân và cả gia đình, ông phải dạy kèm tiếng Pháp cho người Hoa ban đêm; người bạn đời của ông lãnh nấu cơm tháng cho một số thư ký đồng sở với chồng.
Những năm làm chủ quận các nơi, ông chăm chỉ với công việc hành chánh, thường hay nâng đỡ người dân bần hàn cơ khổ, đặc biệt là các người nghèo, vì nghịch cảnh trái ngang nên phải vướng vòng tù tội. Do đó, ông càng được lòng dân địa phương thì chính quyền thuộc địa càng không hài lòng, càng để tâm ngờ vực. Đó cũng là lý do khiến cho Thanh tra Lalaurette trong phúc trình “Le Caodaïsme” đã không ngần ngại dùng nhiều lời thiếu nhã nhặn để chê tác phong làm việc của ông Chiêu, chỉ trích ông thiếu mẫn cán, không biết tận tụy với chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ. Việc liên tiếp thuyên chuyển ông đi những nơi xa xôi như Hà Tiên, Phú Quốc, có lẽ cũng là một kiểu biện pháp hành chánh để đối trị một công chức mà Pháp không hài lòng, vì không ép buộc được người công chức ấy trở thành cánh tay đắc lực của thực dân.
3. Gia cảnh
Khi đang làm thư ký ở Sài Gòn, ông Chiêu được Đốc phủ sứ Lê Công Xũng yêu mến, muốn chọn làm khách đông sàng, cho dù gia thế hai nhà chênh lệch quá nhiều. Theo lời khuyên của cô là bà Ngô Thị Đây, ông khéo léo từ tạ. Về sau ông kết hôn với một thiếu nữ mồ côi, tên là Bùi Thị Thân, buôn bán nhỏ tại chợ Mỹ Tho. Bà người làng Thạnh Trị (Mỹ Tho), sinh năm 1879, có tiếng đảm đang, đức hạnh. Những năm ông bị thuyên chuyển đi các nơi, bà thường xuyên sống xa chồng, thay chồng nuôi dạy con cái chu đáo.
Bà sinh nở chín lần. Hai người con gái đầu là Ngô Thị Ngữ (chào đời tại Mỹ Tho, được năm ngày thì mất), và Ngô Thị Hồng (sinh và mất tại Sài Gòn năm ba tuổi). Bảy người con kế tiếp đều sanh tại Tân An, lần lượt là hai gái: Ngô Thị Yến Ngọc, tức Lợi (sinh năm 1904), Ngô Thị Nguyệt (sinh ngày 27-5-1906); và năm trai: Ngô Văn Nhựt (sinh ngày 10-9-1908), Ngô Văn Tinh (sinh ngày 20-11-1910), Ngô Tường Vân (sinh ngày 01-9-1913), Ngô Thanh Phong (sinh ngày 15-11-1915), Ngô Khai Minh (sinh ngày 09-9-1920).
Ông tuy không giàu, đông con, nhưng được yên tâm tu hành, không bị cảnh thê thằng tử phược khảo đảo, dĩ nhiên nhờ có công lao giúp đỡ của bà, tuy thầm lặng, nhưng không phải là nhỏ. Bà tạ thế ngày 30-12-1955 tại Tân An.
Năm 1909 (Kỷ Dậu), đổi về tỉnh Tân An, ông mướn nhà ở bờ sông, gần chùa Quan thánh. Bấy giờ chỉ có thân mẫu về ở chung, ông Xuân ở tại Sài Gòn với thứ thất.[12] Sau này ông Chiêu mua lại một căn nhà lá ở Tân An, giá sáu mươi đồng, trên đất thuê, số 31 đường Lagrange, xã Bình Lập (ngày nay ở số 27 đường Phan Đình Phùng, Tân An). Lần hồi, Ông cho cất lại, lợp ngói.
Nhà 31 Lagrange, Tân An (ảnh tài liệu)
Nhà 27 Phan Đình Phùng, Tân An (ảnh Huệ Nhẫn)
Năm 1920 (Canh Thân) ông đổi đi Hà Tiên, rồi đi Phú Quốc, vợ con vẫn ở lại Tân An. Năm 1924 (Giáp Tý) trở về Sài Gòn, ông trọ tại Bá Huê lầu, đường Pellerin (nay là Pasteur). Ông nhiều lần thay đổi chỗ trọ, có lúc dời về đường Paul Bert (nay là Trần Quang Khải, Đa Kao), rồi về đường d’Espagne (nay là Lê Thánh Tôn), gần chợ Bến Thành, mướn nhà trên lầu một, phía dưới là một phòng răng. Năm 1928 (Mậu Thìn), nơi cuối cùng ông ở trong thời gian sống tại Sài Gòn là nhà số 110 đường Bonard (nay là Lê Lợi). Ông ở trên lầu hai, tầng trệt là tiệm tạp hóa của Hoa kiều (người Hải Nam). Năm 1931 (Tân Mùi), ông nghỉ việc, lui về tỉnh Cần Thơ, ở tại nhà ông Lý Trọng Quý, số 39, đường Nguyễn An Ninh. Năm sau ông Chiêu tạ thế, khoảng ba giờ chiều ngày thứ Hai 18-4- 1932 (13-3 Nhâm Thân), trong lúc đang trên chuyến phà Mỹ Thuận vượt sông Tiền.
Nhà 39 Nguyễn An Ninh, Cần Thơ (ảnh tài liệu)
Suốt mười hai năm cuối đời, ông thực sự sống ly gia cát ái, vì đây là giai đoạn đức Cao Đài dẫn đạo cho ông tu thiền. Tuy thế, ông vẫn lo tròn bổn phận với gia đình: hàng tháng trích lương chu cấp cho vợ con, lo dành dụm tiền sửa nhà cho vợ con có nơi an cư lạc nghiệp.
4. Đức độ
Làm chủ quận ông Chiêu thường cải dạng thường dân, đi vào các thôn xóm, chợ búa để tìm hiểu, quan sát cuộc sống người dân trong địa phận ông chịu trách nhiệm. Gặp ai khốn cùng, tai ương, ông kín đáo cứu giúp.
Có lần thăm chợ trưa 30 Tết, gặp người bán hoa ế ẩm, mặt héo dàu dàu, ông bỏ tiền mua cả bó lớn hoa, vừa xấu lại mắc. Con ông có ý phàn nàn, ông giải thích rằng muốn giúp họ chút tiền để kịp dọn về lo cúng rước ông bà.
Ông lang Phòng ở Tân An, là chỗ quen biết với ông Chiêu, có hôm buồn, ra mé sông câu cá trong lúc mưa đêm rả rích. Ông lang đội nón lá sùm sụp, che kín mặt, trời lại tối. Ông Chiêu đi qua, chẳng nhận ra người thầy thuốc quen, lại còn móc túi tặng đồng bạc, bảo mang về, sáng đi chợ, đừng dầm mưa lạnh lẽo.
Ông hay nhờ những người nghèo trong xóm đến làm giúp vài chuyện lặt vặt, rồi trả công hậu hĩ. Đó là cách giúp đỡ kẻ khác tế nhị, khéo léo che giấu sự trợ giúp của mình.
Xử kiện trong địa phương, ông rất thanh liêm, công bình. Ca dao Việt Nam có câu nói lên tệ nạn kiện cáo:
Con kiến mà kiện củ khoai,
Kiện đi kiện lại đã hai năm tròn.
Bây giờ kiến đã có con,
Củ khoai mọc mộng vẫn còn kiện nhau.
Ông Chiêu cũng thừa hiểu cái hại cho cả hai bên nguyên cáo và bị cáo nếu bị nha lại lợi dụng. Do đó, trong quyền hạn và cương vị của mình, ông thường khuyên giải và xử hòa các vụ lặt vặt. Những ai nghèo, cô thế, bị áp bức đều được ông giúp.
Tại Tân An, ông từng thân hành đến làng Thái Bình, tổng Mộc Hóa để điều tra vụ án hương chủ Hương ngộ sát thợ cày Vàng rồi toa rập với một cai tổng để chạy tội. Vụ án oan bị xếp lại qua hai đời chủ quận, nhờ ông công minh, hương chủ Hương phải nhận tội.
Một kẻ trộm bị tù, phải đi kéo quạt cho dinh quận (thuở ấy chưa có quạt điện). Y khóc lóc xin ông giúp đỡ, cho về nhà ba hôm lo ma chay bố. Động lòng thương kẻ hiếu, ông chịu bảo đảm cho y về. Mến đức, cảm ân, tội nhân đúng kỳ hạn đã trở lại nộp mình, không dám để ông phải lụy vì tội làm sổng tù.
Có lần trộm đang tìm cách lẻn vào nhà ông, lại bị lính tuần bắt. Sau khi ôn tồn mà nghiêm nghị giải thích điều hơn lẽ thiệt, khuyên y cải ác tùng thiện, ông cho tiền rồi tha về.
Đối với người ngoài, ông rất khoan thứ, nhưng với con lại rất nghiêm. Khi con ông còn bé, phàn nàn ông bố thí rộng rãi cho người dưng mà lại ít chịu cho con tiền túi ăn quà vặt. Ông ôn tồn giải thích: “Các con đã có cơm no, áo quần lành lặn, còn đòi hỏi gì nữa? Ba nuôi người bần khổ là để dành đức lại cho các con đó.”
Bản thân ông rất tiết kiệm. Ngày 12-10-1924, đang làm việc ở Sài Gòn, ông gởi thư về cho hai con gái (Ngô Thị Yến Ngọc và Ngô Thị Nguyệt), dặn con nhíp lại quần áo cũ của ông để ông mặc và ông cũng khuyên con: “Phải biết tiện tặng [tặn] mà ở đời cho khỏi tiếng xấu hổ. Áo vải mà no bụng khỏi bị ai kêu réo đòi nợ là tốt trong đời.” [13]
Thủ bút Ngô Văn Chiêu 12-10-1924 (Huệ Nhẫn sưu tầm)
Dạy con, ông thường nhắc câu “Quan nhất thời, dân vạn đại” (làm quan một lúc, làm dân muôn đời) hoặc là “Thuyền dời chớ bến không dời”, ngụ ý khuyên các con khiêm tốn, thương người, đừng ỷ thế con chủ quận rồi làm quấy.
Những nét phác họa về thân thế ông Ngô Văn Chiêu như trên cho thấy về phương diện đạo làm người, đối với gia đình, xã hội, đồng bào, ông đã là tấm gương trọn vẹn, trong sáng. Người công chức nhân hậu này đã chấp nhận cuộc sống bình dị, nhưng lại vươn lên khỏi chỗ tầm thường của thói tục. Với những đức tính như vậy, ông đã có sẵn mọi điều kiện thuận lợi để hướng vào cuộc sống tu hành, nhằm vào mục đích giải thoát cho kiếp người khỏi vòng luân hồi sanh tử. Nhưng bình sinh ông không chịu tu học với thầy phàm, do đó mãi đến năm bốn mươi ba tuổi (1921) ông mới thực sự bước vào đường đạo, được sự dìu dắt của đức Cao Đài. Mà con đường đưa ông đến với đạo Cao Đài cũng không phải tình cờ, đơn giản.
II. CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CAO ĐÀI
1. Nhân duyên với các đàn tiên
Xu hướng tín ngưỡng của ông Ngô Văn Chiêu sớm bộc lộ từ buổi ấu thơ. Nhà dượng ông tại Mỹ Tho có lập trang thờ đức Quan thánh, do đó ông Chiêu quen dần với việc cúng kính và tụng kinh Minh thánh. Kinh này diễn sự tích Quan Vũ đời Tam Quốc, khuyến tu, do đức Quan thánh giáng cơ vào đời Thanh (Trung Quốc), khá phổ biến ở Nam Kỳ qua nhiều nhan đề và bản dịch khác nhau.[14]
Ngoài ra ông còn ăn chay mỗi tháng hai kỳ sóc vọng (mùng 1 và 15, theo âm lịch). Mãi đến năm 1920 (Canh Thân), lúc ở dảo Phú Quốc, vâng theo lời dạy của đức Cao Đài, ông mới thôi tụng kinh này, chuyển sang tu thiền.
Vốn đã có tín ngưỡng, ông Chiêu tin ở cơ bút và trước khi gặp đạo Cao Đài đã từng nhiều lần hầu đàn tiên do nhiều nhân duyên khác nhau.
Năm 1902 (Nhâm Dần), muốn cầu thọ cho thân mẫu, ông đến hầu đàn Minh thiện (tại Thanh an tự) ở tỉnh Thủ Dầu Một, và được một vị tiên ông ban cho một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ẩn ý sâu xa.
Năm 1917 (Đinh Tỵ), ông hầu đàn Hiệp minh ở Cái Khế, tỉnh Cần Thơ. Mục đích là xin thuốc cho thân mẫu đang đau nhiều. Đến nơi thì đàn đã lập, đồng tử đang tiếp điển thiêng liêng. Ông không dám đường đột đi vào, sợ náo động, nên đứng chờ ở ngoài. nào ngờ tiên gia gõ cơ cho phép ông vào hầu, ban cho bài thuốc và hai bài thơ. Bài thơ thứ nhất dài mười câu lục bát:
Trời còn sông biển đều còn,
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh minh trong tiết vườn xuân,
Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Đường đi trên núi dưới đèo,        
Lặng tìm cao thấp ải [phải?] trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,            
Biết phương tiên phật bồng lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu trời đất thanh liêm chín mười.
Sau này, có lẽ tuân hành lời dạy của thiêng liêng, ông Chiêu nối tiếp thêm bốn câu nữa, để dùng làm lời khấn khi cầu cơ:
Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,
Bền lòng theo phật cho người xét suy.
Thần tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh
Năm 1919 (Kỷ Mùi), vì thân mẫu đau nhiều, ông cũng trở lại đàn Hiệp minh, nhưng chỉ được ban cho bài thơ (trường thiên) với nhiều câu ẩn áo. Tiên gia không cho thuốc. Ông lại lặn lội về đàn Minh thiện ở Thủ Dầu Một, được đức Quan thánh ban cho một bài thất ngôn tứ tuyệt. Cuối năm này thân mẫu ông tạ thế.
2. Nghe hồng danh Cao Đài lần thứ nhất (1920)
Trước khi chuyến đi tỉnh Hà Tiên, khoảng tháng 1 hay 2 năm 1920 (Kỷ Mùi), ông Chiêu thường lập đàn cầu cơ tại tỉnh Tân An cùng các ông Đoàn Văn Kim (1868-1946), hương bộ Lê Kiển Thọ (1868-1946), thầy giáo Nguyễn Văn Vân (1893-1981), nhà giáo kiêm soạn giả Trần Phong Sắc (1873-1928). Ông Sắc là một nhà nho hữu danh, hồi ấy đã được khách Lục châu biết tên qua các một số tuồng hát và nhiều bản dịch truyện Tàu như Đại Minh hồng võ (1907), Anh hùng náo tam môn giai (1907)...
Phận sự của các ông trong những buổi lập đàn tiên thường như sau:
- pháp đàn: Trần Phong Sắc (có nhiệm vụ họa phù tức là vẽ bùa để trấn đàn, ngăn cản tà quái xâm nhập đàn cơ; còn có trách nhiệm ký tên chứng thực giá trị của bổn điển sau cùng).
- đồng tử âm: Lê Kiển Thọ; đồng tử dương: Nguyễn Văn Vân (hai người cùng thủ cơ, bốn bàn tay giữ đại ngọc cơ, gọi là đồng tử âm dương hay song đồng).
- điển ký: Đoàn Văn Kim (ghi chép bổn điển tức là lời dạy qua phương tiện cơ bút và đồng tử; có khi cần hai, ba điển ký để sau khi xả đàn tức là dứt buổi cầu cơ, pháp đàn sẽ đối chiếu các bổn điển mà hiệu đính những sai sót).
- độc giả: Ngô Văn Chiêu (nhìn ngọn cơ viết chữ trên mặt bàn và đọc ra tiếng để cho điển ký ghi chép).
Trong một buổi lập đàn tại nhà ông Chiêu, khi đọc bài cầu cơ đến câu Ngũ chơn bửu khí lâm trần thế... thì cơ gõ mạnh xuống bàn, một đấng xưng danh là Cao Đài Tiên ông, bảo pháp đàn sửa lại câu văn nọ. Ông Sắc không chịu nghe. Tiên ông bảo ông Chiêu sửa; ông đổi lại là Bửu chơn ngũ khí lâm trần thế... Tiên ông gõ cơ khen.
Vì không rõ Cao Đài Tiên ông là đấng nào, các ông bạch, xin cho biết lai lịch. Tiên ông trả lời:
Cao Đài ứng hóa theo lòng chúng sanh,   
Đố ai biết được cái danh Cao Đài.
Các bài cầu cơ thỉnh tiên lưu truyền trong dân gian thường có vài dị bản. Chẳng hạn, ngoài quyển Vạn pháp quy tông của đạo giáo Trung Quốc truyền sang Việt Nam, bài cầu cơ ở nhà ông Chiêu cũng có trong quyển Thần chú thỉnh tiên (Sài Gòn: nhà in Phát Toán, 1907, tr. 3-4), mà La Thành Đầm tự Mộ Tần (thơ ký nhà Đoan) gọi là Bài thỉnh tiên sơ thỉnh dài 46 câu, trong đó câu 9 in là Ngọc chơn bửu khí lâm trần thế.
3. Nghe hồng danh Cao Đài lần thứ hai (1920)
 Xong tuần bá nhật (một trăm ngày) của thân mẫu, ngày thứ Hai 01-3-1920 (11-01 Canh thân) ông Chiêu đổi ra tỉnh Hà Tiên. Ông thường lên núi Thạch Động cầu tiên. Một vị tiên cô xưng danh Ngô Kim Liên ban cho ông hai vé thơ, ngụ ý khuyến tu:
Văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu,
Rằng trời cùng đất vẫn xa mù.
Non tây ngoảnh lại đường gai góc,
Gắng chí cho thành bực trượng phu.
Ngần ngần trăng tỏ giữa trời thu
Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù.
Mắt tục nào ai trông thấy đấy,
Lắm công trình mới đúng công phu.
Núi Thạch Động, Hà Tiên (ảnh tài liệu)
Đêm Trung thu năm Canh Thân (Chủ nhật 26-9-1920), ông Chiêu cùng các ông Cao Văn Sự, Nguyễn Thành Diêu lập đàn tại nhà ông Lâm Tấn Đức. Tiên ông ban cho bốn câu thơ vừa xưng danh vừa điểm danh như sau:
Cao Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu,
Linh lung vạn hộc thể Quan, Diêu.
Vô thậm Sự, Đức nhiệm ngao du,
Bích thủy, thanh sơn tương đối tiếu.
Chưa biết Quan là ai. Diêu và Sự thì đã rõ. Riêng Lâm Tấn Đức (1866-1934, tự Hữu Lân, không con) là anh ruột của Lâm Tấn Thoại, và ông Thoại là cha của Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906-1969).
Lâm Tấn Đức (Huệ Nhẫn sưu tầm)
Nhà Lâm Tấn Đức (Huệ Nhẫn sưu tầm)
4. Thọ pháp (1921)
Thứ Ba 26-10-1920 (15-9 Canh Thân), ông Chiêu đổi ra Phú Quốc. Về hòn đảo này, Đông Hồ cho biết: “Ở Phú Quốc phần nhiều là còn giữ được cái phong tục, cái đức tính cổ thời, rõ là xã hội ‘gia vô bế hộ’. Nhà ở không bao giờ có làm cửa. Những nhà hào phú muốn làm cửa là cho tốt coi chớ ban đêm cũng vẫn không khóa. Cửa bỏ ngỏ mà không bao giờ có kẻ trộm.” [15]
Tại hòn đảo này, ông thường lập đàn cầu tiên núi Dương Đông. Đàn được lập ở một phật đường của đạo Minh sư, tục gọi là chùa Quan Âm, cách Dinh quận chừng 500 mét. Đông Hồ Lâm Tấn Phác tả chùa Quan Âm như sau: “Chùa cất trên tuyệt đỉnh, trước mặt thì có núi cao bình án, sau lưng thì có biển rộng hoành triều, rất được thế non nước. Tường đá rào tre quanh co, các thứ nhàn hoa cổ thụ, u ảo thanh tịnh vô cùng.” [16]
Chùa của Minh sư được gọi là phật đường. Do không hiểu, các báo cáo của mật thám, thanh tra Pháp thường gọi lầm là “đạo Phật đường”. Chùa Quan Âm vì thế cũng gọi Quan Âm Phật đường, thuộc tông Hoằng tế. Phải chăng do môi trường này ông Chiêu đã có dịp quen biết một chức sắc lớn của Minh sư là Thái lão sư Tùng Ngạc để tìm hiểu về phép tu đơn (thiền) theo bí truyền đạo Lão?
Cuối năm 1920 (Canh Thân), một tiên ông ẩn danh giáng đàn, dạy rằng nếu ông Chiêu thuận làm đệ tử thì tiên ông sẽ vui lòng truyền đạo. Tiên ông còn dặn hãy ngưng tụng kinh Minh thánh. Đến lúc ấy, ông Chiêu vẫn giữ lệ ăn chay mỗi tháng hai kỳ vào các ngày sóc, vọng. Cho nên, khi tiên ông dạy ông phải ăn thập trai (mỗi tháng ăn chay mười ngày) để đủ điều kiện thọ pháp tu thiền, thì ông lại e ngại việc đời ràng buộc, sẽ khó giữ tròn giới nguyện.
Mùng 1 Tết Tân Dậu (thứ Ba 08-02-1921), tại chùa Quan Âm, ông Chiêu chưa kịp bộc bạch điều gì thì tiên ông đã ra lịnh: “Chiêu, tam niên trường trai.” Thế là ông chỉ còn biết vâng lời, cầu xin tiên ông hộ trì.
Các tín đồ Cao Đài Chiếu minh, học theo phép tu thiền của ngài Ngô, đã chọn ngày mùng 1 Tết Tân Dậu làm một trong bốn ngày âm lịch kỷ niệm ngài Ngô Minh Chiêu:
- 01 tháng 01: kỷ niệm ngày trường trai thọ pháp.
- 07 tháng 01: kỷ niệm sinh nhật.
- 05 tháng 3: kỷ niệm ngày hiển đạo tại thế.
- 13 tháng 3: kỷ niệm ngày quy thiên.
Kể từ mùng 1 Tết năm ấy, ông Chiêu tu học thiền pháp với tiên ông ẩn danh. Tuy rằng trực tiếp học với vị sư phụ vô hình, nhưng trong bước đầu bỡ ngỡ, có những thắc mắc nho nhỏ mà chỉ cần người có kinh nghiệm tọa thiền nhiều năm là giúp giải quyết được dễ dàng, không cần mỗi sự việc đều phải lập đàn cơ thỉnh giáo. Ăn cơm có canh, tu hành có bạn. Như vậy, ông Chiêu chắc chắn đã có một vị thiện tri thức làm bạn đạo, để trợ duyên cho ông trong buổi đầu còn sơ cơ. Vị thiện tri thức đó vốn là một chức sắc cao trọng của phái Minh sư, một phái tu sở trường về thiền pháp.
Sự kiện này được Đại tiên Ngô Minh Chiêu trong một đàn cơ tại tu viện Minh đức (Vũng Tàu) nhắc lại vào thứ Năm 13-3-1980 (27-01 Canh Thân) như sau: “Buổi đầu Tiên huynh được Thượng đế chọn làm môn đệ đầu tiên. Đức Từ phụ tùy theo căn cơ và sự sống, tuổi tác của Tiên huynh mà cho người dẫn dắt một phương pháp công phu tu luyện, mặc dầu đã có từ ngàn xưa, nhưng nay cũng tạm đặt là Cao Đài tân pháp để làm đường giải thoát cho Tiên huynh, một đồ đệ đầu tiên của đức Thượng đế trong Tam kỳ Phổ độ.”
Hai năm sau, cũng tại tu viện Minh đức, thứ Sáu 23-7-1982 (03-6 Nhâm Tuất), Minh đức Đạo nhơn tiết lộ thêm về sự kiện này: “Vì Đạo vô vi, sư vô vi nên cũng cần có sự hộ trợ của hữu hình. Như ngày xưa, thuở ban sơ khai Đạo, đức Chí tôn cũng cần có Thái lão sư Tùng Ngạc truyền đạo cho Minh Chiêu Đại tiên khi còn tại thế.”
5. Thiên nhãn xuất hiện (20-4-1921)
Tiên ông ẩn danh dạy ông Chiêu không được tiết lộ pháp môn tu luyện, có lẽ vì thời cơ chưa đến. Ông cũng chưa biết một nghi thức nào để thờ đấng sư phụ vô vi. Một hôm, tiên ông dạy ông hãy nghĩ ra một biểu tượng nào đó cho mối đạo do tiên ông sáng lập. Ông Chiêu đề nghị chữ thập. Có lẽ điều này là kết quả của việc ông học đạo bấy lâu. Hệ từ thượng truyện của kinh Dịch có câu “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo.” (Một âm một dương gọi là Đạo.) Tượng trưng Đạo là sự phối hiệp hòa hài lưỡng nghi (âm dương), các nhà đạo học dùng chữ thập, vạch ngang là âm, vạch đứng là dương. Khi đề nghị thờ chữ thập, phải chăng ông Chiêu muốn ám chỉ cái nguyên lý huyền diệu chi phối khắp cả vũ trụ càn khôn là Đạo?
Tuy nhiên, tiên ông dạy phải tìm một biểu tượng khác, bởi vì chữ thập gợi đến hình ảnh cây thánh giá của đạo Thiên Chúa. Ông Chiêu xin thời hạn một tuần, nhưng rồi cũng không thể nghĩ ra được ý gì.
Buổi sáng ngày 20-4-1921 (13-3 Tân Dậu), vào lúc tám giờ, ông Chiêu đang ngồi trên võng, phía sau Dinh quận Phú Quốc, nhìn ra biển khơi, chợt thấy trước mặt hiện rõ một con mắt thật lớn, linh động, hào quang chói lọi. Ông sợ, lấy tay che mắt. Hồi lâu, mở mắt ra nhìn, cảnh tượng vẫn còn. Ông chắp tay, khấn xin tiên ông cho con mắt ấy biến đi, nếu như tiên ông muốn ông thờ con mắt. Lạ thay, sau đó cảnh tượng mờ dần rồi mất hẳn. Mặc dù vậy, trong dạ ông hãy còn phân vân. Vài hôm sau, ông cũng mục kích lại một cảnh tượng y như vậy, và cũng chỉ sau khi khấn, hứa xin thờ con mắt thì con mắt nọ mới biến đi.
6. Nghe hồng danh Cao Đài lần thứ ba (tháng 4-1921)
Khoảng vài ngày sau khi Thiên nhãn xuất hiện lần thứ hai, ông Chiêu đến hầu đàn tại chùa Quan Âm, Tiên ông dạy hãy vẽ lại Thiên nhãn (con mắt trái) như đã mục kích để thờ. Dịp này, tiên ông còn xưng hồng danh là Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát, dạy ông Chiêu gọi đức Cao Đài bằng Thầy.
Vì ở Tân An và Hà Tiên đã hai lần được nghe hồng danh Cao Đài (1920), hơn nữa hai chữ Cao Đài vẫn thường được nhắc tới mỗi khi đọc bài chú thỉnh tiên cho nên có lẽ ông Chiêu không thấy bỡ ngỡ.
Đối với ít nhiều người ở Nam Kỳ thời xưa từng dùng sách Ấu học quỳnh lâm để học chữ Nho thì lại khá quen thuộc với ý nghĩa hai chữ Cao Đài. Đây là một quyển sách giáo khoa rất xưa, do Trình Đăng Cát đời Minh (1308–1644) soạn, rồi Trâu Thánh Mạch đời Thanh (1644–1911) viết thêm phần tăng bổ.
Quỳnh là một loại ngọc quý, màu đỏ. Quỳnh lâm là tên một cảnh vườn trong phủ Khai phong đời Tống (Trung Quốc). Vua Tống tổ chức tiệc thết đãi các tiến sĩ mới thi đậu ở vườn này. Vậy nhan đề sách này ngụ ý là: nhằm dạy cho trẻ con (ấu học), mong sau này các em sẽ thi đậu tới tiến sĩ (được dự tiệc ở vườn Quỳnh lâm).
Vào mùa thu năm 1912 tại Thượng Hải, Quảng ích thư cục đã phát hành Ấu học quỳnh lâm (khoảng 15x26cm). Đây là bản in đá của nhà sách Thiên bảo, và gồm bốn quyển. Quyển hai có mười hai chương; nơi chương Thân thể (trang 21) có câu tăng bổ: Cao đài viết đầu (…). Nghĩa là Đài Cao gọi là đầu (…). Lời chú giảng thêm cho câu ấy là: [Phật kinh] Đầu vi Cao Đài (…). Nghĩa là nói theo kinh Phật thì đầu là Đài Cao (…).
Sau này một số thánh giáo Cao Đài cũng dạy Cao Đài là đỉnh đầu (thuật ngữ đạo Lão thường gọi là Nê huờn cung, Côn lôn đảnh). Chẳng hạn:
Thử hỏi Cao Đài ở chốn nao?
Người tu trở lại trở về đâu?
Phải chăng tìm đến Cao Đài thượng?
Đài thượng vô vi tại đỉnh đầu.
[Đức Đông Phương Lão tổ]
“Chữ Cao Đài là gì? Là Côn lôn đảnh hay Nê huờn …”
[Đại thừa chơn giáo, Sài Gòn: 1956, tr. 56.]
7. Ý nghĩa của đàn tại chùa Quan Âm
Ông Chiêu được nghe danh Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát trong đàn cơ lập tại chùa Quan Âm. Như vậy đàn này có một ý nghĩa rất lớn, vì đã xác lập những cơ cấu căn bản tối thiết của một tôn giáo. Nói cách khác, do đàn này, có thể khẳng định rằng đạo Cao Đài dù còn tiềm ẩn đã sớm hình thành từ năm 1921, với các yếu tố ban đầu như sau:
- Giáo chủ (vô vi): đức Ngọc Hoàng Thượng đế, tá danh Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.
- Giáo đồ đầu tiên: ông Ngô Văn Chiêu.
- Giáo pháp: Phần nội giáo tâm truyền (hay hình nhi thượng học), tức là pháp môn tu đơn (tọa thiền), cũng được gọi là tân pháp Cao Đài.
- Giáo tượng (thánh tượng): Thiên nhãn.
- Giáo thuyết: hồng danh Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát thể hiện đường lối dung hợp Tam giáo với Cao Đài biểu thị Nho, Tiên ông biểu thị Lão, Đại bồ tát Ma ha tát biểu thị Phật.
- Giáo điển: Một số bài kinh dùng khi cúng trưóc Thiên bàn vào các thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu đã có như bài “Đại la Thiên đế, Thái cực Thánh hoàng...” và ba bài dâng tam bửu:
Dâng hoa
Hoa tươi năm sắc sắc thiên nhiên,
Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiềng [kính thành].
Cảm đức Cao Đài lòng đoái tưởng,
Từ bi cứu thế giáng đàn tiên.  
Dâng rượu trắng
Tửu vị hương hề tửu vị huơng,        
Khấu đầu cung hiến chước hồ trường.
Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,
Đệ tử cung trần mỹ vị hương.
Trường hợp cúng rượu nho (bồ đào tửu: wine, vin), hay rượu mía (cam giá tửu: rum, rhum) của phương Tây thì đổi bài trên bằng bài:
Bồ đào, cam giá tửu Tây phương,
Bả trản cung trần mỹ vị hương.
Đệ tử thành tâm kiềng phụng hiến,   
Cao Đài hoan lạc kiết trinh tường  
Dâng trà
Đông độ thanh trà mỹ vị huơng,
Khấu đầu cung hiến chước hồ trường,
Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,
Đệ tử cung trần mỹ vị hương.
Như vậy, nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử khai đạo Cao Đài đã xảy ra tại chùa Quan Âm. Chùa này thoạt đầu do công tạo tác của các ông Huỳnh Đăng Khoa, Đỗ Minh Châu (tức Cả Bốn). Về sau, ông Châu truyền chùa lại cho con là Đỗ Kim Cự. Ông Cự lại truyền chùa cho ông Đỗ Văn Đồ (tức Tám Gia).
Người thừa tự này tính khí thất thường, có khi gây chuyện náo động làm cho buổi hầu đàn mất thanh tịnh, thiếu trang nghiêm. Vì vậy, sau hơn nửa năm lập đàn ở đây, ông Chiêu phải chuyển đến chùa Sùng hưng của hòa thượng Thích Ngộ Tiên (1885-1946), cách chùa Quan Âm khoảng 200 mét.
Sùng hưng tự, Phú Quốc (ảnh tài liệu)
Lần hồi, thiếu người chăm sóc, chùa Quan Âm suy sụp đổ nát. Năm 1961 (Tân Sửu), muốn giữ lại một di tích có liên quan ít nhiều đến thời kỳ khai nguyên nền Đạo, các tín đồ Cao Đài Chiếu minh đã dựng trên nền cũ của chùa Quan Âm một mái chùa mới, tức là Cao Đài Hội thánh. Gần đó là một am nhỏ, kỷ niệm chùa Quan Âm.
Cao Đài Hội thánh, Phú Quốc (ảnh tài liệu)
8. Ba năm tu học (1921-1924)
 Trong thời gian ba năm học đạo với đức Cao Đài trên đảo Phú Quốc, ông Chiêu một lòng tinh tấn với tâm bất thối chuyển. Đức Cao Đài khuyến khích:
Ba năm lao khổ độ nhứt nhơn,
Mắt Thầy xem rõ lòng dạ chắc,
Thương vì con trẻ hãy còn thơ,
Gắng chí tầm phương biết đạo mầu.
“Thương vì con trẻ hãy còn thơ”, phải chăng là ám chỉ việc ông Chiêu đang luyện đơn? Đơn kinh đạo Lão có câu “Thập ngoạt hoài thai, tam niên nhũ bộ.” (Mười tháng mang thai, ba năm bú mớm.) Hoặc nói ẩn dụ là thánh thai, anh nhi, xích tử... Tất cả đều ám chỉ một giai đoạn tu luyện của hành giả trên đường thiền.
Giữa năm 1924 (Giáp Tý), ông Chiêu được chuyển về làm việc tại Sài Gòn. Đức Cao Đài ban cho ông một bài lục bát trường thiên dài hai mươi câu, trong đó có những lời khen:
Ba năm lòng sáng như son,
Trèo non xuống biển vuông tròn công phu.
Hay là:
Giờ này Thầy điểm thâm công,
Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên.
Lời tiên tri “cỡi rồng về nguyên” sau này sẽ ứng nghiệm, khi ông Chiêu liễu đạo trên một nhánh sông Cửu Long lúc đang trên phà Mỹ Thuận vượt sông Tiền (18-4-1932).
Rời đảo Phú Quốc ngày thứ Ba 29-7-1924 (28-6 Giáp Tý), ông Chiêu về đến Sài Gòn ngày hôm sau.
Gia đình ông vẫn còn ở Tân An, ông mướn nhà ở, và đổi chỗ luôn (như đã thuật ở trên). Ông sống kín đáo như một ẩn sĩ giữa chốn phồn hoa: tan sở lại về nhà trọ đóng cửa tu luyện âm thầm. Thời cơ chưa đến, cơ Đạo chưa thể trổ mặt, và đức Cao Đài chưa cho phép ông truyền bá tân pháp (thiền Cao Đài). Còn phải đợi đến cuối năm 1925 (Ất Sửu), bởi vì từ giữa năm này trở đi, Đức Cao Đài lại vận chuyển cho một nhóm môn đồ khác, sẽ hiệp cùng ông Chiêu trên đường truyền giáo, trong cái thế nội ngoại bình hành là thiền, là nội giáo tâm truyền, hay hình nhi thượng học (esoterism) và phổ độ, là ngoại giáo công truyền, hay hình nhi hạ học (exoterism).
Sự hình thành của nhóm môn đồ này trải qua hai giai đoạn:
(a) Lúc đầu là sự quy tụ giữa những người thân cận của các ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Trong Chương III tạm gọi các vị này là nhóm Cao-Phạm.
(b) Một thời gian sau đó, nhóm Cao-Phạm phát triển rộng, chuẩn bị cho việc truyền đạo Cao Đài khắp mọi nơi. Trong Chương IV tạm gọi nhóm Cao-Phạm sau khi đã phát triển là nhóm Phổ độ.
Con đường hình thành từ nhóm Cao-Phạm đến nhóm Phổ độ đã diễn biến với nhiều thi vị thanh tao và nhiều huyền diệu nhiệm mầu.
LÊ ANH DŨNG
CHÚ THÍCH
[1] Tông đồ: Tín đồ tích cực truyền bá một tín ngưỡng tôn giáo. [Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ xb, 1992, tr. 994.]
[2] Collège de Mỹ Tho do Phó đô đốc, Thống đốc Nam Kỳ, Bá tước Louis Charles Georges Jules Lafont lập ngày 17-01-1879. Đến ngày 14-6-1881 thì Đại tướng, Quyền thống đốc Nam Kỳ Arthur de Trentinian đổi tên trường thành Collège le Myre de Vilers. [Theo: Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918. Hà Nội: Nxb Giáo dục, 1999, tr. 109.] Sau năm 1945 Collège le Myre de Vilers đổi tên thành trung học Nguyễn Đình Chiểu. [Theo: Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn hóa-Thông tin, 1994, tr. 269.]
Nói thêm: Charles Marie le Myre de Vilers là cựu tỉnh trưởng (préfet), cựu giám đốc dân sự vụ (directeur des affaires civiles) ở Algérie, được bổ làm thống đốc Nam Kỳ ngày 13-5-1879, nhậm chức từ ngày 07-7-1879 đến 11-01-1883, vắng mặt ở Sài Gòn từ 04-3-1881 đến 31-10-1881. [Theo: SHAOAB 1981, tức làCommission française du Guide des Sources des Sources de l’Histoire des Nations. Sources de l’Histoire de l’Asie et de l’Océanie dans les Archives et Bibliothèques françaises. Part I: Archives. (Ouvrage préparé avec l’aide et sous les auspices de l’Unesco.) München: K.G. Saur, 1981, pp. 538—539.]
[3] Ngày 10-7-1871 Pháp lập trường Ecole normale colonial (trường sư phạm thuộc địa); ngày 12-8-1871 Pháp lấy địa phận chùa Khải Tường để xây trường. Năm 1874 trường này đổi tên thành Collège indigène (trường bản xứ), có lẽ do một Nghị định ngày 14-11-1874 của Phó đô đốc, Thống đốc Nam Kỳ Jules François Emile Krantz; năm 1876 lại đổi tên thành Collège Chasseloup-Laubat, chia ra khu Âu (quartier européen) và khu học sinh bản xứ (quartier indigène). Ngày 15-7-1927 tách khu bản xứ nhập sang trường Collège de Cochinchine (trung học Nam kỳ). Năm 1928 Collège Chasseloup- Laubat đổi tên thành Lycée Chasseloup-Laubat, còn Collège de Cochinchine đổi tên thành Lycée Petrus Ký. [Nguyễn Đình Đầu, “Giáo dục dưới triều Nguyễn và dưới thời Pháp (1698-1955)”, trong Địa chí văn hóa thành phố, tập II: Văn học - Báo chí - Giáo dục. 1998, tr. 696, 730]. Năm 1966 Lycée Chasseloup- Laubat đổi tên thành trường trung học Lê Quý Đôn [Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn hóa-Thông tin, 1994, tr. 268.]
Nói thêm: Chasseloup-Laubat là Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa của triều đình Pháp, chủ trương chiếm Sài Gòn để làm căn cứ có lợi cho ảnh hưởng của quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông, và cũng đã tác động vua Napoléon III rất nhiều trong chính sách xâm lược, cướp Nam Kỳ làm thuộc địa. [Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ. Sài Gòn: Trung tâm Sản xuất Học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên xb., 1974, tr. 14, 22, 25.]
[4] R.B. Smith, “An introduction to Caodaism”, BSOAS. University of London, Vol. XXXIII, Part 2, 1970, p. 338: “Vietnamese cultural and religious influence inevitably counted for much more in his life than his French education.”
[5] Khi ông Chiêu bắt đầu vào làm việc tại Dinh Thống đốc (01-01-1903) thì Thống đốc Nam Kỳ bấy giờ là François Pierre Rodier, (ngạch?) thống đốc các thuộc địa (gouverneur des colonies), được bổ nhiệm ngày 21-10-1902. Trong thời gian Rodier vắng mặt thì Olivier Charles Arthur de Lalande-Calan, thanh tra các sở dân sự (inspecteur des services civils), được bổ làm quyền thống đốc Nam Kỳ ngày 02-3-1906, nhậm chức từ ngày 10-3-1906 cho tới khi Rodier trở về Sài Gòn ngày 02-01-1907.
Ngày 29-6-1907, khâm sứ (résident supérieur) Louis Alphonse Bonhoure được bổ làm thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 13-7-1907. Trong thời gian Bonhoure vắng mặt thì Ernest Antoine Outrey, thanh tra các sở dân sự, được bổ làm quyền thống đốc Nam Kỳ ngày 28-02-1908 và giữ chức cho tới Bonhoure trở về Sài Gòn ngày 24-9-1908.
Ngày 09-02-1909, Jules Maurice Gourbeil, (ngạch?) thống đốc các thuộc địa, được bổ làm thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 16-6-1909. Trong thời gian J.M. Gourbeil vắng mặt (từ 09-02-1909 đến 15-6-1909) thì E.A. Outrey trở lại làm quyền thống đốc Nam Kỳ. [Theo: SHAOAB 1981, pp. 539-540.]
[6] Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời hư. 1992, tr. 234.
[7] Paulus Của, Sách quan chế, 1888, tr. 13.
[8] Tháng 7-1924, ông Chiêu về Sài Gòn thì quyền thống đốc Nam Kỳ là Auguste Tholance, thanh tra chánh trị và hành chánh sự vụ (inspecteur des affaires politiques et administratives), nhậm chức từ ngày 31-5-1924 thay cho Thống đốc Maurice Cognacq vắng mặt cho tới ngày 17-12-1924.
Ngày 09-4-1926 Aristide Eugène le Fol, (ngạch ?) tham biện hạng nhất (administrateur de 1er classe), được bổ làm quyền thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 19-4-1926.
Ngày 09-11-1926 Paul Marie Alexis Joseph Blanchard de la Brosse, (ngạch?) thống đốc các thuộc địa, được bổ làm thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 30-12-1926.
Ngày 04-11-1928 Jean Félix Krautheimer, (ngạch?) thống đốc các thuộc địa, được bổ làm thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 06-3-1929.
Ngày 05-01-1929 Eugène Henri Eutrope, ngạch tham biện hạng nhất, được bổ làm quyền thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức từ ngày 12-01-1929 tới 06-3-1929 trong khi J.F. Krautheimer vắng mặt.
Cuối năm 1931 khi ông Chiêu rời khỏi Dinh Thống đốc thì E.H. Eutrope đang làm quyền thống đốc Nam Kỳ lần thứ hai trong lúc J.F. Krautheimer vắng mặt (từ 21-11-1931 đến 11-11-1932). [Theo SHAOAB 1981, p. 540.]
Nói thêm: Như vậy các sách sử Cao Đài hay chép Le Fol là “thống đốc” thì không đúng. Ông ta chỉ là quyền thống đốc, đảm nhiệm chức vụ trong khoảng hơn nửa năm trong lúc chờ một thống đốc chính thức từ Pháp bổ sang. Tuy nhiên, trong cách xưng hô (như trên Tờ khai Đạo ngày 07-10-1926), mọi người vẫn gọi ông là “Thống đốc” vì phép lịch sự.  
[9] Về các ngạch thư ký, tri huyện, tri phủ và đốc phủ sứ, tôi căn cứ theo Paulus Của, Sách quan chế, 1888, tr. 15.
Về các kỳ thi thăng trật và mức lương của ông Chiêu, tôi tham khảo kết quả nghiên cứu điền dã của Huệ Nhẫn Võ Thành Châu (Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại đạo). Riêng mức lương ngạch tri huyện hạng nhì và hạng nhất thì không đọc nổi số liệu. Nhân đây tôi xin chân thành biết ơn nhà nghiên cứu sử Đạo Huệ Nhẫn đã cho phép tôi sử dụng một số hình ảnh sưu tầm và kết quả điền dã của ông.
[10] Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời hư, 1992, tr. 240. Ở đây, có lẽ Vương Hồng Sển đã nhầm lẫn, vì ông Chiêu chỉ thăng tới ngạch tri phủ chứ không phải đốc phủ. Đốc phủ là nói tắt ngạch đốc phủ sứ, ngạch này cao hơn ngạch tri phủ.
[11] Đồng Tân, Lịch sử Cao Đài. Quyển I. Sài Gòn, 1967, tr. 129.
[12] Lịch sử quan Phủ Ngô Văn Chiêu. Sài Gòn: 1962, tr. 15.
[13] Theo tài liệu điền dã của Huệ Nhẫn Võ Thành Châu.
[14] Để biết rõ thêm về kinh Minh thánh, có thể đọc: Lê Anh Dũng, Quan thánh xưa và nay. Hà Nội: Nxb Văn hóa – Thông tin, 1995.
[15] Đông Hồ, “Thăm đảo Phú Quốc”, Nam phong tạp chí. Số 124, năm 1927, tr. 545.
[16] Đông Hồ, “Thăm đảo Phú Quốc”, tr. 545.

No comments:

Post a Comment